Với hơn 25 năm hình thành và phát triển, ngành công nghiệp y tế điện tử đang có những bước tiến triển vững chắc trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe số.
Trong nhiều năm, hình ảnh đặc trưng nhất của bác sĩ là với chiếc áo khoác trắng trong phòng thí nghiệm, ống nghe đeo quanh cổ, và biểu đồ của bệnh nhân. Hình ảnh đơn giản này thể hiện ba hoạt động chính liên quan đến việc cung cấp các dịch vụ y tế: thu thập dữ liệu (sử dụng các công cụ như ống nghe), ghi dữ liệu (quan sát tình trạng và lịch sử bệnh nhân) và phân tích (thực hiện bởi các bác sĩ lâm sàng dựa trên thông tin có sẵn).
Mô hình này cũng sẽ được sử dụng như một khuôn khổ trong tương lai để phát triển ngành chăm sóc sức khỏe điện tử.
Ứng dụng công nghệ vào chăm sóc sức khỏe hay y tế điện tử đã có khoảng thời gian 25 năm phát triển nhưng đến nay thành tựu thu được cũng chưa thực sự khả quan. Như trong tất cả các ngành công nghiệp khác, sự ra đời của máy tính và Internet đã thúc đẩy ngành y tế phát triển mạnh mẽ nhưng vẫn chậm hơn so với nhiều lĩnh vực. Sự chậm trễ này phần lớn đến từ việc phát triển các thiết bị đầu cuối không có sự đột phá như những ngành khác.
Trên toàn thế giới, việc đầu tư vào lĩnh vực y tế điện tử luôn thiếu tầm nhìn dài hạn, thiếu đầu tư tài chính của các chính phủ cũng như các tập đoàn công nghệ. Ngay cả trong chính các bác sĩ trong một thời gian dài không thực sự mặn cũng không coi hồ sơ điện tử y tế (electronic health records -EHRs) và các công cụ khác như là nền tảng của y tế điện tử hiện đại. Nhiều thành tựu đã được tạo ra từ hệ thống hồ sơ y tế điện tử, nhưng tất cả cũng chỉ nằm trong các tổ chức hạn hẹp mà không thể chia sẻ ra ngoài.
Tại Mỹ, nơi được coi là có sự đầu tư mạnh mẽ nhất cũng mãi đến thời Tổng thống George W. Bush, và mở rộng hơn dưới thời Tổng thống Barack Obama – 2 nhà lãnh đạo này đã phát động sáng kiến nhằm khuyến khích các bệnh viện, trung tâm ứng dụng EHRs và nhiều chính sách mở cũng như tài trợ về tài chính.
Các hình thức của ngành y tế điện tử bao gồm như hồ sơ y tế điện tử (chăm sóc và chữa bệnh từ xa (telemedicine), thông tin sức khỏe (health informatics) hay những ứng dụng mới nhất sử dụng thiết bị di động để thu thập dữ liệu sức khỏe m-heath….
1. Hồ sơ y tế điện tử:
Một trong những thành công thiết thực nhất của ứng dụng công nghệ trong y tế chính là việc thiết lập hồ sơ điện tử y tế vào đầu những năm 1990.
Đây là những hồ sơ y tế được số hóa cho việc phép trao đổi dữ liệu bệnh nhân giữa các bác sĩ điều trị một cách dễ dàng bằng kết nối. Chỉ riêng ở nước Mỹ đã có gần 88% hồ sơ y tế được ứng dụng tại các bệnh viện và khoảng 75% ứng dụng tại phòng khám tư nhân, và tất cả những hồ sơ này đều được bảo vệ an toàn bằng các bộ luật quyền cá nhân.
Hệ thống EHR cơ bản có tất cả các chức năng sau: lịch sử bệnh nhân và nhân khẩu học, danh sách vấn đề bệnh nhân, ghi chú lâm sàng bác sĩ, danh sách đầy đủ của các loại thuốc và dị ứng của bệnh nhân, mua thuốc theo toa qua mạng, và kết quả chuẩn đoán hình ảnh… Một trong những tính năng chính của EHR là thông tin y tế có thể được tạo ra và bệnh viện có thẩm quyền quản lý định dạng kỹ thuật số được chia sẻ với các trung tâm điều trị để phục vụ tốt hơn trong việc chăm sóc sức khỏe. EHR còn được xây dựng để chia sẻ thông tin với các tổ chức khác như phòng thí nghiệm, các chuyên gia, phương tiện chẩn đoán hình ảnh, hiệu thuốc, các cơ sở cấp cứu, trường học… vì vậy chúng chứa nhiều thông tin, từ tất cả từ bác sĩ lâm sàng cho đến quá trình chăm sóc bệnh nhân.
Hồ sơ y tế điện tử quan trọng trong việc xử lý thông tin người bệnh
Một cuộc khảo sát năm 2014 của Trường American College of Physicians chỉ ra rằng các bác sĩ gia đình đã dành 48 phút hơn một ngày trên EMRs. Và 90% bác sĩ cho rằng dữ liệu giấy chậm hơn nhiều so với hồ sơ y tế điện tử. Khoảng 34% cho biết phải mất nhiều thời gian để tìm thấy và xem xét dữ liệu hồ sơ bệnh án, và 32% cho rằng đó mất nhiều thời gian hơn để đọc ghi chú các bác sĩ khác.
Tuy nhiên tính đến thời điểm hiện tại thì hồ sơ y tế chưa thực sự hoàn thiện bởi những rủi ro và tính bảo mật, quyền cá nhân chưa được đảm bảo. Hồi năm 2006 đã hơn 170.000 bản ghi bị lỗi về đơn thuốc và phần lớn do khâu xử lý bằng máy tính. Năm 2010 thì những lỗi sai sót trong truyền tải dữ liệu. Khái niệm về một mô hình trung tâm dữ liệu quốc gia về chăm sóc sức khỏe còn chưa hoàn chỉnh bởi trang bị quá nghèo nàn ở hầu hết các quốc gia ứng dụng. Bộ luật The Health Insurance Portability and Accountability Act (HIPAA) đã được thông qua ở Mỹ vào năm 1996 nhằm thiết lập các quy tắc cho việc truy cập, xác thực, lưu trữ và kiểm toán, và chuyển hồ sơ y tế điện tử.. Tuy nhiên, có những lo ngại về sự an toàn của các tiêu chuẩn này. Trong năm 2013, các báo cáo dựa trên các tài liệu của Edward Snowden tiết lộ rằng NSA đã thành công trong việc phá vỡ các mã bảo vệ hồ sơ y tế điện tử.
2. Điều trị từ xa:
Năm 1970, lần đầu tiên khái niệm điều trị từ xa (telemedicine) được dùng nhằm mô tả cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho các bệnh nhân từ xa thông qua hệ thống viễn thông và công nghệ thông tin. Những công nghệ này cho việc giao tiếp giữa bệnh nhân và nhân viên y tế trở nên thuận tiện trong việc truyền thông tin, hình ảnh, dữ liệu y khoa qua các công cụ kết nối.
3. Khám chữa bệnh từ xa:
Tiền thân của loại hình điều trị từ xa này đã có từ lâu, chẳng hạn dân châu Phi sử dụng tín hiệu khói để cảnh báo tránh xa ngôi làng trong trường hợp bệnh nghiêm trọng. Trong những năm 1900, dân sống ở vùng sâu vùng xa của Úc sử dụng radio để nhận sự tư vấn và điều trị bởi trung tâm dịch vụ y tế Royal Flying Doctor Service của Úc.
Hình thức đầu của điều trị từ xa với điện thoại và đài phát thanh, hiện nay đã được bổ sung thêm kênh hình ảnh, nâng cao phương pháp chẩn đoán hỗ trợ bởi các ứng dụng client/server , và các thiết bị chuyên dụng khác.
Dịch vụ chăm sóc sức khỏe ở đây có thể bao gồm cả chẩn đoán và điều trị, tư vấn và các lĩnh vực mang tính thông tin khác. Các lĩnh vực khác từ đó được hình thành như chẩn đoán hình ảnh từ xa (teleradiology), tư vấn từ xa (teleconsulting), hội chẩn từ xa (telediagnostics)…
Hệ thống tương tác y học từ xa đầu tiên hoạt động trên đường dây điện thoại được thiết kế để chẩn đoán từ xa và điều trị bệnh nhân cần hồi sức tim (khử rung tim) được phát triển và đưa ra bởi công ty MedPhone vào năm 1989. Thời điểm hiện tại của thế kỷ 21 thì các trung tâm, bệnh viện sử dụng hệ thống mạng quảng lý thông tin bệnh viện (HIS – Hospital Information System) để quản lý các loại hình dịch vụ điều trị từ xa. Ngoài ra Hệ thống thông tin và lưu trữ hình ảnh (Picture Archiving and Communication System – PACS) cũng cho phép chuẩn đoán hình ảnh từ xa, khám và chăm sóc sức khỏe tại nhà.
Mỹ sử dụng chuẩn EDI cho y tế (EDI – Electronic Data Interchange) hay DICOM (Digital Imaging and Communication in Medicine – Hình ảnh và truyền số trong y học) dùng cho chẩn đoán hình ảnh. Chuẩn này được dùng trong mạng PACS và hệ thống mạng y tế Metropolitan Area Network với sự góp mặt của hầu hết các bệnh viện, phòng khám, công ty dược, công ty cung cấp thiết bị y tế, cơ sở nghiên cứu và đào tạo, bảo hiểm y tế.
Châu Âu sử dụng chuẩn CEN (Comitee European de Nomlalisation) có khả năng tương thích với chuẩn EDI của Mỹ. Và hệ thống E-Health của Châu Âu có sự tham gia của 33 nước thành viên sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông để tăng chất lượng dịch vụ y tế.
Gần đây Google thông báo rằng sẽ cung cấp dịch vụ y học từ xa là Crescendo. Các công ty lớn khác trong lĩnh vực y tế điện tử từ xa như HealthTap , Senscio Systems… và một số công ty cung cấp thuốc như OneMedical, IoraHealth… đã có thành tựu đáng kể trong lĩnh vực này.
4. Thông tin điện tử về sức khỏe:
Thông tin điện tử về sức khỏe là nghiên cứu các nguồn lực và phương pháp nhằm cập nhật kiến thức về sức khỏe đến với cộng đồng hay bệnh nhân bằng phương tiện Internet.
Thông tin điện tử về sức khỏe liên quan đến các hệ thống như hồ sơ y tế điện tử (EHR), chuẩn trao đổi thông tin y tế như Health Level 7 (HL7), thuật ngữ y tế như hệ thống hóa danh mục Systematized Nomenclature of Medicine, điều khoản lâm sàng (SNOMED CT), và các thiết bị y tế di động để thu thập dữ liệu.
Việc sử dụng thông tin điện tử về sức khỏe đầu tiên vào những năm 1950 với dữ liệu thu thập về răng miệng của Cục Tiêu chuẩn Quốc gia Mỹ, nay là Viện Tiêu chuẩn và Công nghệ (NIST). Ngày nay, Hội Tin học quốc tế y tế (IMIA) giám sát các tổ chức thành viên liên quan đến Thông tin điện tử về sức khỏe trên toàn thế giới.
5. Đội ngũ chăm sóc ảo:
Kết nối đã tạo ra nhiều lựa chọn mới trong ngành công nghiệp chăm sóc sức khỏe, bao gồm cả các đại lý ảo y tế, cổng thông tin, tham vấn từ xa, và hồ sơ sức khỏe điện tử cá nhân. Các tùy chọn telemedicine sẽ tiếp tục tăng trưởng trong trong tương lai gần, và công ty bảo hiểm, dưới áp lực tiết kiệm chi phí sẽ áp dụng các phương pháp mới – chăm sóc ảo (virtual healthcare) được đưa vào để bổ sung vào các dịch vụ truyền thống.
Các yếu tố thị trường sẽ thúc đẩy doanh thu 280 triệu USD tại Mỹ năm 2013 lên đến 641 triệu USD vào năm 2018, với phần lớn doanh thu đến từ các công ty bảo hiểm y tế. Vào năm 2018, 22 triệu hộ gia đình tại Mỹ sẽ sử dụng giải pháp chăm sóc ảo, so với 1 triệu hộ trong năm 2013, trong đó bao gồm cả chăm sóc cấp tính và dịch vụ theo dõi phòng ngừa, thiết lập hệ thống chăm sóc tại nhà hoặc nơi làm việc
Đối với các chương trình chăm sóc ảo, để đạt được thành quả lớn trong tương lai, các nhà cung cấp dịch vụ, bảo hiểm, và các nhân viên y tế sẽ cần phải thúc đẩy các giải pháp cho bệnh nhân của họ. Dịch vụ Telehealth phải được bổ sung đầy đủ các chức năng, mang đến lợi ích to lớn cho bệnh nhân. Mọi người bệnh có thể sử dụng cổng thông tin y tế trực tuyến như WebMD để đặt câu hỏi, tra cứu thông tin y tế chi tiết, và tư vấn theo yêu cầu. Nhưng hiện tại thì ngay cả người dân Mỹ cũng đang quá chậm chạp trong việc sử dụng các dịch vụ này.
Đa số người dân chi tiền trong ngành công nghiệp chăm sóc sức khỏe (75%) dành cho việc điều trị các bệnh mãn tính. Chăm sóc ảo cung cấp cho bác sĩ một cách dễ dàng hơn để liên tục theo dõi, tham gia với bệnh nhân mãn tính và làm giảm chi phí, và cũng cho phép các chuyên gia chăm sóc với phương pháp điều trị nhanh gọn hơn phương thức đến phòng khám đối với một số bệnh nhẹ như cảm lạnh thông thường…
Đối với bệnh nhân, tùy chọn này có nghĩa là vấn đề sức khỏe trẻ em có thể được giải quyết nhanh hơn và thường được xử lý ngay tại nhà. Trong một số trường hợp, các chương trình chăm sóc ảo có thể cung cấp cho bệnh nhân khả năng kết nối nhanh đến bác sĩ khi không có thời gian chờ ở bệnh viện. Các chương trình khác sẽ có thể kết nối bệnh nhân với các bác sĩ ngoài giờ mà không cần phải đi đến phòng khám.
6. M-health hay mobile health:
Sau một thời gian phát triển thì vẫn chưa thực sự đạt kết quả tốt, các công ty công nghệ đã bắt đầu nhìn thấy thị trường sức khỏe di động (m-Health) sẽ là cuộc cách mạng tuyệt vời trong kinh doanh. m-Health được coi là tổng hợp của các ứng dụng dựa trên công nghệ cho phép bệnh nhân và bác sĩ lâm sàng tương tác từ các địa điểm khác nhau. Ví dụ như trao đổi thông tin y tế thông qua e-mail, nhắn tin, ứng dụng smartphone, lưu trữ và trao đổi hình ảnh, video trên web.
Smartphone đóng vai trò quan trọng trong lĩnh vực y tế điện tử
Thị trường m-Health đang được tái phát triển bởi sự tăng trưởng của ngành công nghiệp điện thoại thông minh. Với hơn 1,03 tỷ smartphone được bán ra trên toàn thế giới, con số này dự kiến sẽ tăng lên hơn 27% trong vòng 5 năm tới. Sự tăng trưởng này được thúc đẩy bởi hàng ngàn ứng dụng được người dùng sử dụng trong cuộc sống hàng ngày. Người dùng đang được hưởng sự tiện lợi của thiết bị cầm tay từ việc gửi tiền, tìm đường, giải trí…
Trên thế giới, cơ sở hạ tầng y tế vẫn chưa thể đáp ứng được hết các cuộc gặp gỡ giữa bệnh nhân và bác sĩ. Và loại hình chăm sóc sức khỏe qua di động đang được kì vọng có thể cải thiện được tình huống này. Tuy nhiên trên thực tế thì mặc dù smartphone đã có hơn 7 năm phát triển mạnh tính từ khi iPhone đầu tiên ra đời nhưng thị trường m-Health vẫn dậm chân tại chỗ. Hiện có hơn 20.000 ứng dụng về chăm sóc sức khỏe có sẵn trên thị trường. Một nghiên cứu của Pew Research Center 2012 cho thấy chỉ có 10% người sử dụng điện thoại tải về ứng dụng chăm sóc sức khỏe, và chỉ có khoảng 10% dân số Mỹ (36 triệu) sử dụng công nghệ m-Health, chẳng hạn như chăm sóc từ xa. Việc bác sĩ và bệnh nhân còn phụ thuộc vào phòng khám là rào cản lớn đối với m-Health.
Bác sĩ hoặc bệnh nhân sử dụng công nghệ như là một nguồn tài nguyên cá nhân phục cho nhu cầu y tế sẽ khiến họ không quá phụ thuộc vào nhau. Một bệnh nhân có thể tự theo dõi bệnh tiểu đường của mình, hoặc một bác sĩ có thể tìm kiếm đơn thuốc chuẩn hóa là không quá ngạc nhiên, nền tảng thiết bị di động và các ứng dụng y tế chưa có sự thống nhất… Mọi thứ sẽ tốt hơn cho cả bệnh nhân và bác sĩ nếu có thể cùng chia sẻ dữ liệu thời gian thực với nhau, xem xét thông tin và xử lý trước khi biến chứng có thể phát sinh.
7. Hệ thống thông tin y tế:
Hệ thống này bao gồm cơ sở hạ tầng cho các bệnh viện, trung tâm chăm sóc y tế, các phần mềm quản lý, ứng dụng điều trị cũng như quản lý thông tin về sức khỏe.
Các loại hình trên lồng ghép vào nhau để tạo nên một cấu trúc hạ tầng đa dạng phục vụ cho việc chăm sóc bệnh nhân. Việc quản lý hệ thống đó đòi hỏi phải có một nền tảng vững chắc, trình độ cao về kĩ thuật, pháp lý, con người nhằm bảo đảm tính chính xác, toàn vẹn, tính luôn sẵn sàng, cũng như tính bảo mật và có thể truy xét nguồn gốc của thông tin trao đổi.
Những năm 1960. Các trình điều khiển chăm sóc sức khỏe chính trong thời kỳ này là Medicare và Medicaid, sử dụng máy tính lớn và hệ thống lưu trữ đắt tiền. Các ứng dụng chủ yếu phát sinh trong môi trường này thường mang tính hành chính, kế toán của bệnh viện.
Bước vào thập kỉ 90. Trong thập kỷ này, cạnh tranh và củng cố định hướng ứng dụng công nghệ trong y tế đang dần hình thành cùng với sự cần thiết phải tích hợp công nghệ vào các bệnh viện, nhà cung cấp, quản lý và chăm sóc. Bệnh viện bây giờ đã có quyền truy cập vào các hệ thống tính toán phân tán rộng và mạng lưới mạnh mẽ.
Hệ thống thông tin y tế đã có nhiều thay đổi từ năm 2010 với định hướng mới là điện toán phân tán. Bệnh viện có máy tính ở khắp mọi nơi, sự phát triển này đi kèm với lượng dữ liệu ngày càng lớn. Lúc này sản phẩm của hệ thống này chính là các hồ sơ y tế được phổ biến và hỗ trợ mang quyết định đến việc chuẩn đoán lâm sàng.
Sức Khỏe Vàng